Bản Chất Virus Máy Tính

Bản Chất Virus Máy Tính

Virus được coi là những ký sinh trùng siêu nhỏ, chúng nhỏ hơn rất nhiều so với vi khuẩn. Phần lớn các bệnh gây ra do virus phát triển lây lan. Vậy virus là gì? chúng hình thành như thế nào? Nguồn gốc ra sao? Cùng VMinTech giải quyết tất cả những thắc mắc này trong bài viết dưới đây.

Bản chất của pháp luật là gì?

Theo các quan điểm thần học và quan điểm tư sản thì Pháp luật không có thuộc tính riêng. Bản chất Pháp luật của quan điểm thần học gắn liền với bản chất của Người nắm quyền (người đại diện đấng siêu nhiên). Pháp luật của quan điểm tư sản là thể hiện ý chí của tất cả mọi người trong xã hội, do đó không mang tính giai cấp. Trái với các quan điểm trên, quan điểm học thuyết Mác – Lênin cho rằng bản chất Pháp luật mang thuộc tính giai cấp và thuộc tính xã hội.

Theo học thuyết Mác – Lênin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó, không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp.

Pháp luật mang tính giai cấp:

Học thuyết Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử, đã giải thích một cách đúng đắn khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp. Theo học thuyết Mác-Lênin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó, không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp.

Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị. C.Mác và Ănghen khi nghiên cứu về pháp luật tư sản đã đi đến kết luận: Pháp luật tư sản chẳng qua chỉ là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung của nó là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp tư sản quyết định. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí của nhà nước, ý chí đó được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Nhà nước ban hành và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, vì vậy pháp luật là những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc đối với mọi người.

Trong xã hội có giai cấp tồn tại nhiều loại quy phạm khác nhau, thể hiện ý chí và nguyện vọng của các giai cấp, các lực lượng xã hội khác nhau, nhưng chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất chung cho toàn bộ xã hội.

Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một “trật tư” phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.

Bản chất giai cấp là thuộc tính chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào nhưng mỗi kiểu pháp luật lại có những nét riêng và cách biểu hiện riêng. Ví dụ: Pháp luật chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô, tình trạng vô quyền của nô lệ. Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền, đặc lợi của địa chủ phong kiến, cũng như quy định các chế tài hà khắc dã man để đàn áp nhân dân lao động. Trong pháp luật tư sản bản chất giai cấp được thể hiện một cách thận trọng, tinh vi dưới nhiều hình thức như quy định về mặt pháp lý những quyền tự do, dân chủ… nhưng thực chất pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và mục đích trước hết nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công cụ để xây dựng một xã hội mới trong đó mọi người đều được sống tự do, bình đẳng, công bằng xã hội được bảo đảm.

Virus được hình thành như thế nào?

Virus đã được hình thành và tồn tại ngay từ khi có những tế bào sống phát triển đầu tiên. Cho đến nay, nguồn gốc thực sự của virus vẫn được được khẳng định rõ ràng vì chúng không tạo thành hóa thạch. Các nhà khoa học đã sử dụng kỹ thuật điện phân để thực hiện so sánh DNA hoặc RNA của virus.

Bên cạnh đó, các loại virus cũng có thể được truyền theo chiều dọc khi chúng tích hợp vào tế bào sinh vật chủ, giống như việc truyền con cái của vật chủ qua nhiều thế hệ. Nhờ những thông tin này mà các nhà khoa học có thể truy tìm ra.

Hiện nay có 3 giả thuyết về sự hình thành của virus:

Thứ nhất, giả thuyết hồi quy. Theo giả thuyết này thì virus có thể đã từng là những tế bào nhỏ ký sinh trên các tế bào lớn hơn. Qua thời gian, các gen không được yêu cầu bởi ký sinh trùng thì sẽ bị mất đi. Còn các vi khuẩn nhỏ  rickettsia và chlamydia là những tế bào sống, chúng chỉ sinh sản bên trong tế bào vật chủ. Dựa theo giả thuyết này có thể thấy sự phụ thuộc của ký sinh trùng có thể làm mất gen cho phép sống sót ở bên ngoài. Bởi vậy mà nhiều người còn gọi giả thuyết này với những cái tên khác như giả thuyết thoái hóa, giả thuyết giảm.

Sự hình thành của Virus được lý giải bằng nhiều giả thuyết khác nhau

Thứ hai, giả thuyết nguồn gốc tế bào. Giả thuyết này có rằng virus đã tiến hóa từ DNA hoặc RNA, sau đó chúng thoát khỏi gen của một sinh vật lớn hơn. Trong đó, DNA có thể đến từ plasmids hoặc transposons.

Thứ ba, giả thuyết đồng tiến hóa hay còn có tên gọi khác là giả thuyết đầu tiên. Theo giả thuyết này thì virus có thể tiến hóa từ các phân tử phức tạp của protein và acid nucleic, chúng xuất hiện cùng thời điểm với tế bào xuất hiện lần đầu tiên trên Trái Đất.

Trên đây là một số những thông tin cơ bản nhất về virus là gì? Sự hình thành của virus. Mong rằng đây sẽ là những thông tin giải đáp hữu ích giúp bạn có cái nhìn tổng quan về virus và có thêm những thông tin về nguồn gốc của chúng.

- Ứng viên tốt nghiệp đại học ngành đúng/ngành gần/ ngành khác theo quy định.

- Điểm trung bình tốt nghiệp GPA < 7

Môn thi: môn ngoại ngữ – Anh văn (115 phút)

- Điều kiện miễn thi ngoại ngữ: Ứng viên đạt trình độ ngoại ngữ bậc B2 theo khung đánh giá CEFR.

- Tốt nghiệp đại học ngành đúng/ngành gần/ngành khác theo quy định.

- Trình độ ngoại ngữ bậc B2 theo khung đánh giá CEFR.

Ứng viên chuẩn bị hồ sơ và gửi về địa chỉ email [email protected] hoặc gửi trực tiếp tại văn phòng.

+ 02 bản photo văn bằng, chứng chỉ ngoại ngữ (theo quy định tại Phụ lục 1 đính kèm bên dưới) còn hiệu lực tính đến ngày nộp hồ sơ.

+ 02 bản sao công chứng bằng tốt nghiệp Đại học; 02 bản sao công chứng bảng điểm đại học.

Đối với ứng viên có văn bằng tốt nghiệp đại học nước ngoài, phải có bản dịch thuật sang tiếng Việt và có giấy chứng nhận của “Cục quản lý chất lượng”.

Đối với ứng viên chưa có bằng tốt nghiệp đại học, phải nộp Giấy cam kết bổ sung bằng tốt nghiệp đại học trước ngày Trường ra quyết định công nhận trúng tuyển trình độ thạc sĩ (Biểu mẫu giấy cam kết xem file đính kèm)

+ 02 bản sao bảng điểm các môn học chuyển đổi, bổ túc kiến thức (nếu có).

+ Phiếu đăng ký dự thi có dán kèm 2 ảnh 3×4 (in từ hệ thống), Lý lịch khoa học (in từ hệ thống, có đóng dấu xác nhận của địa phương hoặc cơ quan công tác), Phiếu khám sức khỏe (bản gốc hoặc photo công chứng).

+ Giấy chứng nhận đối tượng chính sách (nếu có).

+ Bài luận cá nhân giới thiệu về bản thân, mục đích học tập, kỹ năng, kinh nghiệm công tác (dành cho ứng viên tham gia hình thức xét tuyển và hình thức kết hợp giữa xét tuyển và thi tuyển).

+ Thư giới thiệu của giảng viên hoặc người quản lý (dành cho ứng viên tham gia hình thức kết hợp giữa xét tuyển và thi tuyển).

Chương trình Thạc sĩ Khoa học Máy tính được xây dựng trong khuôn khổ dự án Châu Âu Erasmus+ Project N. 573901-EPP-1-2016-1-IT-EPPKA2-CBHE-JP, với tên gọi  “Đào tạo cử nhân, thạc sỹ chuyên ngành phát triển, quản trị, quản lý, bảo vệ hệ thống mạng thông tin trong các doanh nghiệp tại Moldova, Kazakhstan, Việt Nam”, chương trình được thiết kế nhằm đáp ứng với khung bằng cấp Châu Âu và nhu cầu của doanh nghiệp trong lĩnh vực An ninh mạng.

Phân tích thuộc tính của pháp luật:

Là những đặc trưng cơ bản của Pháp luật, nếu Pháp luật không có những đặc tính này Pháp luật có tồn tại trong xã hội cũng không ý nghĩa. Pháp luật có những đặc tính sau:

Trong xã hội cách hành xử của mỗi người trong cùng một quan hệ có thể khác nhau do vậy nhằm hướng hành vi của mọi người theo cách xử sự chung phù hợp với lợi ích Nhà nước và xã hội, Nhà nước đã đặt ra Pháp luật vì tính quy phạm Pháp luật là nhằm chỉ ra cách xử sự mà mọi người phải theo trong trường hợp hay tình huống nhất định. Ngoài Pháp luật các quy phạm khác trong xã hội như quy tắc đạo đức, luân lý, tôn giáo… cũng có tính quy phạm nhưng khác với các quy phạm xã hội, tính quy phạm của Pháp luật mang tính phổ biến rộng khắp đến tất cả các thành viên trong xã hội.

Là những đặc trưng cơ bản của Pháp luật, nếu Pháp luật không có những đặc tính này Pháp luật có tồn tại trong xã hội cũng không ý nghĩa. Pháp luật có những đặc tính sau:

Trong xã hội cách hành xử của mỗi người trong cùng một quan hệ có thể khác nhau do vậy nhằm hướng hành vi của mọi người theo cách xử sự chung phù hợp với lợi ích Nhà nước và xã hội, Nhà nước đã đặt ra Pháp luật vì tính quy phạm Pháp luật là nhằm chỉ ra cách xử sự mà mọi người phải theo trong trường hợp hay tình huống nhất định. Ngoài Pháp luật các quy phạm khác trong xã hội như quy tắc đạo đức, luân lý, tôn giáo… cũng có tính quy phạm nhưng khác với các quy phạm xã hội, tính quy phạm của Pháp luật mang tính phổ biến rộng khắp đến tất cả các thành viên trong xã hội.

Đây là một thuộc tính thể hiện bản chất của Pháp luật, nếu Pháp luật không có tính cưỡng chế thì dù Pháp luật có tồn tại hay không vẫn không có ý nghĩa vì trong xã hội luôn có những người không nghiêm chỉnh tuân thủ Pháp luật mà còn tìm cách chống lại các quy định của Pháp luật, do vậy những quy tắc xử sự đặt ra trong luật bắt buộc mọi người phải thực hiện và nó được đảm bảo bằng các hình thức chế tài của Nhà nước.

Tính chất này ở Pháp luật thể hiện khi Pháp luật đặt ra những quy tắc xử sự cho một trường hợp, hoàn cảnh nhất định mà bất kỳ ai rơi vào những trường hợp, hoàn cảnh đó đều phải áp dụng những quy tắc mà Pháp luật đã đặt ra, mọi người đều bình đẳng như nhau, đều chịu sự tác động của Pháp luật.

Pháp luật bao gồm nhiều quy định khác nhau nhưng tất cả đều được sắp xếp theo một trật tự, thứ bậc, thống nhất với nhau trong một hệ thống. Chính nhờ tính chất này mà Pháp luật được áp dụng dễ dàng và hiệu quả hơn trong đời sống xã hội.

Pháp luật có vai trò giúp ổn định xã hội, do đó nếu Pháp luật luôn thay đổi sẽ đánh mất lòng tin của mọi người đối với Pháp luật. Mặt khác Pháp luật luôn được đòi hỏi phải phù hợp với sự phát triển kinh tế nên khi các quan hệ kinh tế xã hội thay đổi phát triển thì Pháp luật phải thay đổi theo nếu không Pháp luật sẽ trở thành yếu tố cản trở sự phát triển xã hội, nên tính ổn định của Pháp luật là tính ổn định tương đối.